HẬU QUẢ CỦA SỰ THIẾU HỤT VITAMIN H TRONG CƠ THỂ

Biotin (vitamin H) là một loại vitamin tan trong nước thường được phân loại là vitamin B tổng hợp. Biotin cần thiết cho tất cả các sinh vật và có thể được tổng hợp bởi một số chủng vi khuẩn, nấm men, nấm mốc, tảo và một số loài thực vật.

Biotin hòa tan trong nước là một đồng yếu tố cần thiết cho các enzyme trong quá trình chuyển hóa trung gian và là chất điều hòa chính của biểu hiện gen. Hôm nay hãy cùng Trường Cao đẳng Y dược Pasteur tìm hiểu về chứ đề này nhé!

Hình. Công thức cấu tại của Biotin (Vitamin H hay Vitamin B7)

  1. Một số lưu ý về vitamin H (Biotin)

Cả dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa không có biotin và tiêu thụ lòng trắng trứng sống kéo dài đều có liên quan đến các triệu chứng thiếu hụt biotin thực sự, bao gồm rụng tóc, viêm da, phát ban da, mất điều hòa, co giật và các rối loạn chức năng thần kinh khác.

Thiếu hụt biotinidase là một rối loạn di truyền hiếm gặp làm suy yếu quá trình hấp thụ và tái chế biotin, dẫn đến thiếu hụt biotin thứ cấp.

Biotin được sử dụng trong điều trị bệnh hạch nền đáp ứng biotin-thiamin, một rối loạn di truyền về vận chuyển thiamin.

Các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát gần đây đã không tìm thấy việc bổ sung biotin liều cao có lợi trong điều trị bệnh đa xơ cứng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu trên động vật và phân tích tổng hợp các thử nghiệm lâm sàng ở người rất hứa hẹn.

Hiện vẫn chưa có bằng chứng xác định việc bổ sung biotin có cải thiện cân bằng nội môi glucose và lipid ở những người mắc bệnh đái tháo đường týp 2 hay không, nhưng các quan sát gợi ý đã được công bố.

 Liệu pháp chống co giật (chống động kinh) dài hạn có thể làm tăng nhu cầu biotin trong chế độ ăn vì thuốc chống co giật có thể cản trở sự hấp thu ở ruột và tái hấp thu biotin ở thận và cũng có khả năng làm tăng sự phân hủy biotin thành các chất chuyển hóa không hoạt động.

Việc sử dụng các chất bổ sung biotin liều cao có thể dẫn đến kết quả bất thường của các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm sử dụng tương tác biotin-streptavidin (avidin) có ái lực rất cao.

  1. Tình trạng thiếu hụt Biotin

Mặc dù tình trạng thiếu hụt biotin quá mức trên lâm sàng là rất hiếm, nhưng nhu cầu của con người đối với chế độ ăn uống biotin đã được chứng minh trong ba tình huống khác nhau: cho ăn qua đường tĩnh mạch (đường tiêm) kéo dài mà không bổ sung biotin, trẻ sơ sinh được nuôi bằng sữa công thức nguyên tố không có biotin và tiêu thụ lòng trắng trứng sống trong một thời gian dài. thời gian kéo dài. Lòng trắng trứng sống chứa avidin; protein kháng khuẩn này liên kết với biotin với ái lực và tính đặc hiệu gần như duy nhất dưới dạng liên kết thuận nghịch. Vì avidin tự nhiên có khả năng chống lại sự tiêu hóa của động vật có vú và vi sinh vật nên avidin ngăn cản sự hấp thụ biotin.

Hình. Lòng trắng trứng sống ngăn cản sự hấp thụ vitamin H vào trong cơ thể

  1. Các yếu tố nguy cơ gây thiếu hụt biotin (vitamin H)

Ngoài việc tiêu thụ lòng trắng trứng sống trong thời gian dài hoặc hỗ trợ dinh dưỡng qua đường tĩnh mạch thiếu biotin, các tình trạng khác có thể làm tăng nguy cơ cạn kiệt biotin.

Hút thuốc lá có ảnh hưởng đến việc tăng quá trình dị hóa biotin (vitamin H).

Các tế bào phân chia nhanh chóng của thai nhi đang phát triển cần có biotin để tổng hợp các carboxylase thiết yếu và cho quá trình biotin hóa histone; do đó, nhu cầu biotin của mẹ có thể tăng lên trong thai kỳ. Nghiên cứu cho thấy rằng một số lượng đáng kể phụ nữ bị thiếu hụt biotin cận lâm sàng hoặc cận lâm sàng trong thời kỳ mang thai bình thường.

 Một số loại bệnh gan có thể làm giảm hoạt động của biotinidase và về mặt lý thuyết làm tăng nhu cầu về biotin. Tuy nhiên, nghiên cứu này không cung cấp bằng chứng về sự thiếu hụt biotin.

  1. Rối loạn chuyển hóa bẩm sinh

Thiếu hụt biotinidase

Thiếu hụt biotinidase là một rối loạn di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường thường được phát hiện khi sàng lọc rối loạn chuyển hóa ở trẻ sơ sinh, mặc dù các dạng khởi phát muộn đã được mô tả gần đây. Thiếu hụt biotinidase dẫn đến thiếu hụt biotin thứ cấp theo nhiều cách. Sự hấp thu ở ruột bị giảm do thiếu biotinidase làm suy yếu quá trình giải phóng biotin từ protein trong chế độ ăn uống. Hơn nữa, quá trình tái chế biotin nội bào liên kết với carboxylase và histone cũng bị suy giảm, đồng thời mất biocytin (N-biotinyl-lysine) và biotin qua nước tiểu. Sự thiếu hụt biotinidase đáp ứng với biotin bổ sung. Đôi khi cần bổ sung qua đường uống từ 5 đến 20 miligam (mg) biotin mỗi ngày, mặc dù liều lượng nhỏ hơn có thể là đủ, đặc biệt là sau này trong thời thơ ấu. Tiên lượng đặc biệt tốt khi liệu pháp biotin được áp dụng ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ và được tiếp tục đáng tin cậy suốt đời.

Thiếu holocarboxylase synthetase

Sự thiếu hụt holocarboxylase synthetase dẫn đến giảm sự hình thành của tất cả các holocarboxylase ở nồng độ biotin trong máu sinh lý; do đó, cần bổ sung biotin liều cao (10-80 mg biotin mỗi ngày). Sự thiếu hụt holocarboxylase synthetase đáp ứng với việc bổ sung biotin liều dược lý trong một số trường hợp chứ không phải những trường hợp khác. Tiên lượng của holocarboxylase synthetase thường, nhưng không phải lúc nào cũng tốt nếu điều trị bằng biotin được đưa ra sớm (thậm chí trước khi sinh) và tiếp tục suốt đời.

 Thiếu vận chuyển biotin

Đã có một trường hợp báo cáo về một đứa trẻ bị thiếu hụt vận chuyển biotin đã đáp ứng với việc bổ sung biotin liều cao. Đáng chú ý, sự hiện diện của một chất vận chuyển vitamin tổng hợp phụ thuộc natri ở người bị lỗi đã được loại trừ là nguyên nhân gây thiếu hụt vận chuyển biotin.

Sưu tầm Thạc sĩ Trần Thị Minh Tuyến

Xem thêm: caodangduochoc.edu.vn